“Dĩ tửu trợ văn, dĩ văn hội hữu”(theo Hoài Nam, An Ninh Thế Giới Cuối Tháng, số tháng 12-2008)
Người xưa quan niệm, rượu là sự thăng hoa của ngũ cốc, văn thơ lại là sự kết tinh của ngôn từ. Trong thi ca, rượu vẫn thường được nhắc tới như tinh hoa của đất trời.
Vậy vì sao người Việt uống rượu?
Cội nguồn của rượu
Ngay từ thời dựng nước đầu tiên, ở đời vua Hùng Vương cuối cùng, vua vì say sưa nên đã để đất nước rơi vào tay Thục Phán. Sự việc ấy xảy ra năm Giáp Thìn (257 TCN) và được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại. Lĩnh Nam chích quái, tác phẩm tập hợp những truyền thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam vào khoảng cuối đời nhà Trần cũng nhiều lần nhắc đến phong tục uống rượu: “dùng gạo Tri làm rượu”, ý nói đến tầm quan trọng của việc chưng cất rượu với nhân dân.
Có thể thấy, người Việt đã uống rượu từ rất lâu rồi.
Với nền văn minh lúa nước, rượu của người Việt thường được chưng cất từ các loại ngũ cốc khác nhau: gạo nếp, gạo tẻ, gạo lứt, sắn, ngô, khoai… Men rượu thì lại được làm từ những loại thảo dược, hoa sẵn có, quen thuộc như gừng, cam thảo, quế chi, bạch chỉ, rễ cây ớt…
Mỗi nhà, mỗi vùng lại ấp ủ một bí quyết chưng cất khác nhau, từ thời gian ủ rượu, đến vị trí chôn rượu, nước dùng để làm rượu. Thậm chí, gạo mỗi vùng mỗi khác, gạo nếp ở xứ Nam Hà cũng thể giống gạo nếp nơi Đồng bằng Sông Cửu Long.
Chính vì thế, rượu mỗi vùng mỗi khác, thấm đẫm sương gió, chắt chiu tinh túy đất trời, ấp ủ trong lòng của đất, đượm hương vị từng vùng miền.
Rượu dần tượng trưng cho cả một vùng đất, những con người:
- Rượu Mẫu Sơn (Lạng Sơn) được chưng cất từ gạo và nước suối với chất gây men là lá rừng, trong vắt như nước suối mà lại thơm ngon, đậm đà.
- Rượu làng Vân (Bắc Giang) nguyên liệu là nếp cái hoa vang nổi tiếng, với các vị thuốc bắc làm men. Chất rượu trong vắt, lắc nhẹ là sủi tăm. Kẻ sành uống chỉ cần nhìn tăm rượu là có thể đánh giá độ ngon của rượu rồi.
- Rượu Bàu Đá (Bình Định) được chế biến tỉ mỉ với nguồn nước đặc biệt rỉ ra từ bàu đá. Rượu có mùi thơm đặc trưng, hương vị khác biệt, uống 1-2 chén lại thấy dễ chịu thoải mái, trị được đau lưng, đau bụng, tăng cường sức khỏe.
Người Việt xưa tìm đến rượu vì lẽ gì?
“Phi rượu bất thành lễ”
Để lý giải vì sao người Việt uống rượu, có thể bắt đầu từ văn hóa tâm linh đất Việt thuở xa xưa, nậm rượu trở thành một thứ không thể thiếu trên mỗi bàn thờ. Nậm rượu thường làm bằng gốm sứ, màu trắng, hoa văn nhã nhặn, sạch sẽ, đựng trong mình là thứ rượu trắng trong, tinh khiết như cái tâm của kẻ phàm nhân nơi trần thế.
Trong các dịp lễ lạt, hội làng, rượu cũng trở thành thức uống để cúng thần linh, dâng tiên tổ.
Một chén rượu nhạt dâng lên, cúi mình thành kính tạ ơn Thánh Thần.
Đôi chén rượu cùng cạn, mong cao xanh chứng giám cho tình bằng hữu, nghĩa vợ chồng, những lời thề nguyện sắt son.
Âm dương tương hợp
Theo thuyết “âm dương tương hợp” của phương Đông, năng lượng âm dương cân bằng thì vạn sự mới hanh thông. Bữa ăn của người Việt không thể thiếu chén rượu cũng là vì lẽ đó. Thịt cứng là dương, rượu mềm là âm. Có chén rượu giữa bữa cơm thịt, mọi thứ tự nhiên mà hài hòa. Miếng thịt mặn đi kèm hớp rượu cay, hương vị tròn đầy vừa vặn.
“Nam vô tửu như kỳ vô phong”
Nhớ trong kiếm hiệp Kim Dung, các vị hảo hán thường chứng tỏ mình bằng rượu: uống khi kết giao, uống lúc cắt máu ăn thề, uống càng khỏe lại càng chứng tỏ bản lĩnh anh hùng. Tiêu Phong trong Thiên Long Bát Bộ uống rượu bằng bát, uống tựa nước lã, uống mãi chẳng say.
Tiêu Phong cũng là vị anh hùng bậc nhất trong hệ thống tiểu thuyết của Kim Dung.
Văn hóa Việt khi xưa, uống được rượu cũng là một cách khiến những người đàn ông vỗ ngực, ngẩng cao đầu.
Trai mà không uống rượu thì khác gì cờ khi không gió, không thể kiêu hãnh giương cao, vẫy chào.
“Chén tạc chén thù”
Ông cha ta khi xưa có câu “chén tạc chén thù”. Chén tạc là khi chủ chúc khách, khách đáp lễ lại bằng chén thù. Văn hóa chúc tụng cứ từ xa xưa mà hình thành như thế. Nếu kẻ bần nông uống rượu trong bữa ăn, với những câu chuyện về mùa vụ, cây lúa. Thì người nho sĩ lại dùng rượu để thết đãi nhau, giao hảo, bình thơ, luận văn, cảm khái cuộc đời.
Chẳng thế mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết trong Lục Vân Tiên:
Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi
Ta hay nghe “miếng trầu mở đầu câu chuyện” thì chén rượu chính là thứ để thắt tình anh em.
Thứ thuốc của tâm hồn
Xa rời những cuộc vui, tạm quên những lễ lạt, rượu trở nên trầm hơn với những nỗi lòng không cách nào giãi bày.
Người xưa tìm đến rượu như tìm đến một “niềm vui tạm”, hay một cách để quên đi. Còn nay, vì sao người Việt uống rượu? Để quên đi nỗi buồn trần thế, ai oán nhân gian, quên đi cái nhiễu nhương của thời cuộc.
“Đời này thực tỉnh những ai đây
Ai tỉnh cho ta chịu tiếng say
Buồn ruột cho nên men phải nhấp
Dở mồm nào biết giọng là cay
Bạn cùng quỉ dẫy chỉ cho bận
Vui với ma men thế cũng hay
Ngất ngưởng hai tay vơ đũa chén
Đố ai đã được cái say này.”
(Say Rượu, Tú Xương)
Uống để vui, để say, để quên sầu. Rồi khi tỉnh lại thảng thốt nhận ra:Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Văn hóa uống rượu của người Việt ngày nay
Từ những nét xưa vẫn còn lưu dấu
Người Việt ngày nay vẫn giữ được phần lớn cái “thú uống” của cha ông khi xưa. Rượu xuất hiện trong mọi cuộc vui, bữa tiệc, xuất hiện trong những bữa cơm hàng ngày. Những đám cưới linh đình dù ở khách sạn hạng sang bậc nhất hay nơi thôn quê, phố huyện cũng không thiếu một chai rượu trên bàn. Rượu cũng là một thức không thể thiếu trong những lễ chúc tụng, tiệc công ty,… hay đặc biệt là ở những buổi hợp tác kinh doanh quan trọng.
Và cũng như muôn năm cũ, người Việt nay vẫn tìm đến rượu mỗi khi buồn, khi muốn tỏ lòng mình với nhân gian. Những quán pub mọc lên như nấm, quầy bar cùng những chiếc ghế đơn là nơi “trú ẩn” cho rất nhiều tâm hồn cô đơn.
Đến sự giao thoa giữa các nền văn hóa
Đã không chỉ là những táo mèo, mơ, hay nếp cái hoa vàng,… người Việt giờ đây còn biết tới các loại vang, whiskey, gin, vodka… – những loại rượu du nhập từ phương Tây. Người Việt làm quen với rượu “chát” từ những năm Pháp thuộc. Cũng chính người Pháp dạy dân mình cách uống rượu sao cho hợp với từng đồ ăn, từ đó uống rượu có thêm nhiều phần thưởng thức, cảm nghiệm. Rượu khi khai vị khác rượu lúc tráng miệng, vang trắng thì thường ăn kèm đồ biển, vang đỏ cho những bữa tối thịnh soạn, nhiều đạm hơn.
Rượu cũng không chỉ mộc mạc với sự nguyên chất, giản đơn về mùi vị như xưa nữa. Rượu cốt được mix với trái cây, hương liệu… tạo nên những ly cocktail muôn hình muôn vẻ, đem đến những trải nghiệm vị giác rất khác nhau.
Khái niệm về cocktail đã được ghi nhận vào thế kỷ 16. Tuy nhiên, phải đến cuối thế kỷ 19, thức uống này mới trở nên phổ biến tại Mỹ. Năm 1862, một nhân viên khách sạn tại San Francisco đã pha thành công một trong những ly cocktail đầu tiên: Dry Martini – dấu mốc trong lịch sử cocktail thế giới.
Cocktail du nhập vào Việt Nam từ những năm Pháp thuộc. Những ly classic cocktail là một thức uống không thể thiếu trong các quầy bar lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cocktail khi đó chỉ phổ biến với tầng lớp trung lưu, thượng lưu. Ngày nay, việc tiếp cận một ly cocktail trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, khi mà một quán bar bình dân có thể bán ly cocktail với giá chỉ nhỉnh hơn một chút so với cốc cà phê bạn uống. Cocktail dần trở thành một món đồ uống “đại chúng”.
“Ẩm tửu dung hòa đích quân tử”
Người xưa uống rượu không chỉ là uống, mà còn là tỏ lòng, tìm tri kỷ, là một sự kết nối trong cảm xúc và tương thông về tâm hồn. Chẳng thế mà có câu “Rượu ngon phải có bạn hiền, không mua không phải không tiền không mua.”
Nhưng ngày nay, rượu trở nên xấu xí trong mắt nhiều người, cũng bởi vì “văn hóa ép rượu”. Lấy lý do vì công việc, nên ép nhau uống, lấy lý do “chú không nể mặt anh” nên so đo từng chén rượu vơi đầy.
Đôi khi người ta uống, mà chẳng biết mình uống gì. Uống gấp, uống vội, rượu vào, lời ra, bao cái xấu xí từ đó mà thành.
Người uống rượu thì nên trầm tính, uống không phải lấy được, cho có, uống cần biết điểm dừng. Đó mới là cốt cách của người quân tử.
Nói cho cùng, vì sao người Việt uống rượu?
Rượu luôn là thần dược cho tâm hồn, nếu chúng ta biết “đủ”.
Rượu vẫn là nét đẹp trong văn hóa, nếu chúng ta biết “đúng”.
CÂU CHUYỆN